Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

Tự do đầu tiên và cuối cùng (6) - Phần một

Phần một - chương 13,14,15
Krishnamurti - Tự do đầu tiên và cuối cùng
Bản dịch Phạm Công Thiện
CHƯƠNG XIII
DỤC VỌNG

Đối với phần đông chúng ta dục vọng là cả một vấn đề : tham vọng về tài sản, về địa vị, về quyền thế, về tiện nghi vật chất, về sự bất tử linh hồn, về sự liên tục tâm tư, tham vọng được yêu thương chiều chuộng, được với tới một cái gì trường tồn vĩnh cửu bất di bất dịch, một cái gì luôn luôn làm mình thỏa mãn lâu dài, một cái gì vĩnh cửu và vượt ra ngoài thời gian. Vậy thì dục vọng là gì ? Tham dục là cái gì mà nó bức bách xao động chúng ta như thế ? Tôi không đề nghị rằng chúng ta phải thỏa mãn với những gì chúng ta đang có hay với những gì chúng ta đang thể hiện trong bản thể, nếu đề nghị như thế thì chỉ là nói lên sự đối nghịch về những gì chúng ta muốn có được. Chúng ta đang cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của tham dục và nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu nó một cách dọ dẫm, một cách lưỡng lự thì tôi nghĩ rằng chúng ta dễ mang đến một sự hóa thân toàn triệt, sự chuyển hóa này không phải là chỉ thay đổi đối tượng tham dục này qua đối tượng tham dục khác. Sự thay đổi đối tượng như thế, người ta thường gọi là sự “chuyển hóa”, phải thế không ? Khi bất mãn với một đối tượng tham dục nào đó, chúng ta lại “chuyển hóa” đối tượng ấy bằng cách thay thế nó, đổi tìm một đối tượng khác. Chúng ta cứ mãi mãi chạy từ đối tượng tham dục này đến đối tượng tham dục khác mà chúng ta nghĩ rằng nó cao hơn, sang hơn và tế nhị hơn đối tượng cũ ; nhưng thực ra dù có tế nhị gì đi nữa, tham dục lại cũng chỉ là tham dục, và trong sự vận hành của tham dục thì bao nhiêu là cơn quằn quại nội tâm liên miên xuất hiện, bao nhiêu là những khuynh hướng đối nghịch xung đột với nhau.
Nếu thế thì phải chăng chúng ta cần phải tìm hiểu tham dục là gì và tìm hiểu xem rằng chúng ta có thể nào chuyển hóa tham dục được không ? Tham dục là gì ? Phải chăng tham dục là biểu tượng và cảm giác hướng tới đối tượng của chính nó ? Có lòng tham dục nào mà lại chẳng phải là biểu tượng của cảm giác của biểu tượng ? Có thể nào tham dục xuất hiện được nếu không có một biểu tượng và cảm giác mà biểu tượng ấy gây ra trong lòng ta ? Hiển nhiên là không thể có được lòng tham dục nào như thế cả. Biểu tượng thường có thể là một bức tranh, một hình ảnh, một người, một tiếng, một lời, một danh từ, một hình tượng, một ý tưởng hay bất cứ cái gì mang đến cho tôi một khoái cảm, một cảm giác nào đó, nó xui tôi cảm thấy thích nó hay ghét nó ; nếu cảm giác có thể dễ chịu nhẹ nhàng thì tôi muốn được nó, có nó và ghì lấy biểu tượng ấy, rồi tiếp tục triền miên trong khoái cảm. Thỉnh thoảng, tùy theo những xung động khuynh hướng trong tâm tư, tôi thay đổi hình ảnh, hình tượng, đối tượng. Khi nào tôi cảm thấy ứ đầy, chán chường, mệt mỏi với một hình thức khoái cảm này thì tôi tìm kiếm một cảm giác mới, một ý tưởng mới, một biểu tượng mới. Tôi vứt bỏ cảm giác cũ và theo cảm giác mới bằng những lời lẽ mới, những ý nghĩa mới, những kinh nghiệm mới. Tôi chống đối những cái cũ và lệ thuộc vào những cái mới mà tôi cho rằng những cái mới ấy thì cao hơn, sang hơn, thỏa mãn mình hơn. Như thế trong lòng tham dục chứa đựng sự chống đối và sự tuân theo lệ thuộc, sự lệ thuộc ấy khơi dậy sự cám dỗ gợi cảm ; hiển nhiên khi tùy theo lệ thuộc vào bất cứ cái gì, vào một biểu tượng đặc biệt nào đó của lòng tham vọng thì nỗi lo sợ thất vọng bất như ý luôn luôn quấy động tâm thức mình.
Nếu tôi quan sát trọn vẹn tiến trình tham dục trong tâm thức mình tôi sẽ thấy rằng tâm thức tôi vẫn luôn luôn đi tìm một đối tượng để qui hướng về cho được gia tăng cảm giác thêm lên ; trong tiến trình luân chuyển như vậy, chúng ta không thể nào tránh được sự chống đối, cám dỗ và chế phục tâm thức. Tiến trình gồm có trực quan, cảm giác, sự tiếp xúc và dục tính ; tâm trí trở thành dụng cụ máy móc của chính tiến trình ấy và trong sự luân chuyển của tiến trình ấy, những biểu tượng, những lời lẽ ngôn từ, những đối tượng trở thành trung tâm điểm, chung quanh trung tâm điểm ấy xoay tròn tất cả những tham vọng, tất cả những đeo đuổi chạy vạy săn tìm, tất cả cơn tham vọng cao xa ; trung tâm điểm ấy chính là cái “tôi”. Làm thế nào tôi có thể phá tan trung tâm điểm của lòng tham dục ấy, không phải chỉ là sự tham dục đặc biệt nào đó, sự đói khát thèm muốn đặc biệt nào đó, mà toàn thể cơ cấu của lòng tham dục của lòng ngưỡng vọng, hoài vọng. Tất cả những thứ ấy đã gây ra sự sợ hãi về sự mất mát bất đắc chí, làm thế nào có thể phá tan những thứ ham muốn ấy ? Tôi càng bị thất vọng, bất đắc chí chừng nào tôi lại càng gia tăng cường độ cho bản ngã . Khi nào còn hy vọng, hoài vọng, ngưỡng vọng thì vẫn còn sự sợ hãi nằm đàng sau tâm thức và chính sự sợ hãi ấy chỉ gia tăng cường lực cho trung tâm điểm của tiến trình tâm thức. Cuộc cách mệnh tâm thức thật sự chỉ có thể là xảy ra ngay trung tâm điểm của ý thức, chứ không thể xảy ra trên mặt ngoài tâm thức, vì như vậy thì chỉ là sự thay đổi hời hợt dẫn đến hành động bất thiện, nghĩa là chỉ là một tiến trình giải trí tiêu khiển cho sự căng thẳng tâm thức mà thôi.
Khi tôi ý thức được toàn thể cơ cấu của lòng tham dục , tôi thấy được tâm thức tôi đã trở thành một trung tâm điểm bất động khô chết, một tiến trình máy móc của ký ức. Bởi vì chán chường mệt mỏi với sự tham dục nào đó, tôi đã tự động muốn lấp đầy bản thân bằng một tham dục khác. Tâm thức tôi luôn luôn thể nghiệm mọi sự bằng lăng kính của cảm giác, tâm thức tôi chính là dụng cụ của cảm giác. Vì chán ngấy một cảm giác đặc biệt nào đó, tôi tìm kiếm một cảm giác mới, cảm giác ấy có thể là một cảm giác gọi là cao siêu nào đó, chẳng hạn như sự thể hiện Thượng đế trong tâm thức, nhưng đó cũng chỉ là cảm giác thôi. Khi tôi chán mứa thế gian trần lụy, chán ngấy những cơ cực thúc phược trần thế, lúc ấy tôi thèm khát thanh bình, một thứ thanh bình vĩnh cửu, thế rồi tôi tham thiền suy tưởng, kiểm soát, chế ngự, uốn nắn tâm thức để mà cam thực hiện sự thanh bình siêu thoát ấy. Sự thể hiện niềm thanh thản tâm hồn ấy rút lại cũng chỉ là cảm giác mà thôi. Do đó, tâm trí tôi là dụng cụ máy móc của cảm giác, của ký ức, một tâm điểm tỉnh chết từ đó tôi hành động, suy tưởng. Những đối tượng tôi đeo đuổi chỉ là sự phóng đại bên ngoài của tâm trí, trở thành những biểu tượng phát xuất ra những cảm giác. Tiếng “thượng đế”, tiếng “tình yêu”, tiếng “cộng sản”, tiếng “dân chủ”, tiếng “chủ nghĩa quốc gia” – những tiếng này đều là những biểu tượng mang đến những cảm giác cho tâm trí ; các ngài và tôi đều biết rõ, tất cả mọi cảm giác đều chóng qua, vì thế chúng ta đi từ cảm giác này đến cảm giác khác ; tất cả cảm giác đều tăng trưởng thói quen tìm kiếm cảm giác mới lạ. Thế là tâm trí chỉ trở nên dụng cụ của cảm giác và ký ức ; và chúng ta bị vướng kẹt trong tiến trình ấy. Khi nào mà tâm trí vẫn đi tìm kinh nghiệm mới lạ thì tâm trí vẫn chỉ có thể suy tư qua phạm trù của cảm giác ; và đối với bất cứ kinh nghiệm nào, kinh nghiệm đột phát, sáng tạo, đầy sinh khí, hoàn toàn mới lạ hẳn, tâm trí liền biến giảm kinh nghiệm mới lạ này thành ra cảm giác và đeo đuổi cảm giác này, rồi cảm giác trở thành trí nhớ. Do đó, kinh nghiệm trở nên chết và tâm trí trở thành ao tù ứ đọng của quá khứ.
Nếu chúng ta đừng đi sâu vào vấn đề, chắc hẳn chúng ta đã quen thuộc với tiến trình này ; và dường như chúng ta không thể nào vượt qua được . Chúng ta muốn vượt qua, bởi vì chúng ta đã chán chường mệt mỏi công việc đều đều mỗi ngày, ngày nào cũng giống như ngày nào, bao nhiêu sự việc lặp đi lặp lại muôn thuở ; chúng ta chán ngấy việc chạy đuổi máy móc đi tìm cảm giác ; vì thế, tâm trí mới phóng đại ra bên ngoài nào là ý tưởng về chân lý , về thượng đế ; tâm trí mơ mộng một sự thay đổi chủ yếu và tham dự một vai trò chủ động trong sự thay đổi ấy, vân vân và vân vân . Thế là không bao giờ có được trạng thái sáng tạo. Tôi thấy tiến trình tham dục này tiếp diễn vận hành trong bản thân tôi, một tiến trình máy móc, lặp đi lặp lại, khuôn giữ tâm trí trong sinh hoạt thói quen hàng ngày và làm tâm trí trở thành một trung điểm tĩnh chết của quá khứ, không còn tính cách tự phát sáng tạo nữa. Rồi cũng có những khoảnh khắc sáng tạo đột phát, những khoảnh khắc không thuộc về tâm trí , không thuộc về ký ức, không thuộc về cảm giác hay tham dục.
Vậy, vấn đề chúng ta là hiểu sự tham dục – không phải chỉ hiểu giới hạn hoặc cứu cánh thôi mà phải hiểu trọn vẹn tiến trình của tham dục, những khao khát mãnh liệt, những ao ước, những thèm muốn đốt cháy. Hầu hết chúng ta nghĩ rằng khi mình chỉ có ít vật sở hữu thôi là chứng tỏ mình đã thoát ly khỏi tham dục – thế là chúng ta sùng bái những kẻ chỉ có ít vật sở hữu ! Một manh vải làm khố, một chiếc áo tu tượng trưng cho lòng ham muốn của chúng ta, ham muốn thoát khỏi lòng tham dục ; nhưng đó lại cũng chỉ là một phản ứng quá thiển cận hời hợt. Khi tâm trí các ngài còn bị què quặt, tràn đầy vô số ham muốn, vô số tham dục, tín ngưỡng chiến đấu, thì tại sao lại chỉ bắt đầu từ bỏ những vật sở hữu bề ngoài ở mức độ hời hợt thiển cận thôi ? Cố nhiên cách mạng sẽ bắt đầu ngay nơi tâm trí què quặt kia, chứ không phải ở những hình thức bề ngoài, như những vật sở hữu hoặc cách ăn mặc hoặc mấy buổi ăn mỗi ngày. Nhưng chúng ta lại chỉ để ý chú trọng vào những hình thức bề ngoài, vì tâm trí chúng ta quá hời hợt thiển cận.
Vấn đề các ngài và vấn đề của tôi là tìm xem tâm trí có thể nào giải thoát khỏi lòng tham dục, giải thoát khỏi cảm giác. Hiển nhiên tinh thần sáng tạo không có liên quan gì với cảm giác, thực tại, Thượng đế, hay bất cứ danh hiệu nào khác, không phải là một trạng thái mà chúng ta có thể đạt tới, thể nghiệm như cảm giác . Khi các ngài trải qua một kinh nghiệm nào đó, thì cái gì xảy ra ? Kinh nghiệm ấy ban cho các ngài một cảm giác nào đó, cảm xúc bồng bột phấn khởi hoặc cảm xúc chán nản, ngã lòng, phiền muộn. Hiển nhiên, các ngài cố gắng trốn tránh xua đuổi cảm xúc chán nản phiền muộn, nhưng nếu cảm xúc ấy là một niềm vui bồng bột, các ngài lại đeo đuổi nó. Kinh nghiệm của các ngài đã tạo ra một cảm giác ấy ; sự thèm muốn “nhiều hơn nữa” này đã củng cố tăng trưởng tử điểm khoái lạc. Thế là tâm trí, tử điểm này luôn luôn thèm khát nhiều kinh nghiệm sự lạ, tâm trí hoàn toàn bất lực trong việc tri nghiệm điều mới lạ, vì tâm trí luôn luôn thể nghiệm mọi sự qua trí nhớ qua tri thức quen thuộc ; và những gì được trí nhớ nhận ra thì không phải là chân lý, không phải là sáng tạo, không phải là thực tại . Tâm trí đại loại như thế không thể nào ứng nghiệm được thực tại ; tâm trí ấy chỉ thể nghiệm cảm giác thôi, và sự sáng tạo không là cảm giác ; sáng tạo một cái gì vĩnh viễn mới lạ trong từng giây phút một.
Vậy là tôi đã ý thức được thực trạng của chính tâm trí tôi ; tôi thấy rằng nó là du5ng cụ của cảm giác và tham dục, hay đúng hơn, tâm trí chính là cảm giác và tham dục, tâm trí vẫn luôn luôn bị vướng kẹt một cách máy móc, vướng kẹt trong sinh hoạt máy móc, buồn chán hàng ngày. Tâm trí đại loại như thế không thể nào đón nhận hoặc dò dẫm được sự mới lạ trong đời, vì sự mới lạ hiển nhiên là một cái gì vượt lên trên cảm giác, vì cảm giác vẫn luôn luôn là điều cũ, điều quen thuộc. Thế thì tiến trình máy móc của tâm trí và những cảm giác của nó tất cả phải chấm dứt, phải vậy không ? Lòng thèm muốn khao khát muốn có nhiều hơn nữa, sự đeo đuổi những biểu tượng, những tiếng, những lời, những hình ảnh, với những cảm giác do những thứ ấy tạo ra – tất cả điều này phải dứt tuyệt đi – chỉ có thế tâm trí mới mong thể nhập trạng thái sáng tạo, nơi trạng thái sáng tạo này sự mới lạ luôn luôn xuất hiện. Nếu các ngài không còn bị thôi miên bởi những lời, những tiếng, những thói quen, những ý tưởng, và lại hiểu được, thấy được tính cách quan trọng của sự giao tiếp, gặp gỡ thường xuyên giữa tâm trí và điều mới lạ, lúc ấy có lẽ các ngài mới hiểu được tiến trình tham dục, sinh hoạt buồn tẻ hàng ngày, sự ngã lòng chán nản, lòng khao khát kinh nghiệm thường xuyên. Chỉ lúc ấy, tôi nghĩ rằng các ngài mới bắt đầu thấy rằng lòng tham dục chẳng có ý nghĩa gì đối với một người thực sự thao thức đi tìm lẽ sống. Cố nhiên không thể nào bỏ qua một số nhu cầu vật chất như thức ăn, quần áo, nơi ở, và tất cả những sự việc quan yếu như vậy. Tuy nhiên không nên để những nhu cầu ấy trở thành những sự thèm khát tâm lý để cho tâm lý có dịp nhờ đó mà tự củng cố tư thế trở thành trung tâm điểm của lòng tham dục. Bên ngoài những nhu cầu vật chất bất cứ hình thức tham dục nào, như tham muốn sự vĩ đại kiêu kỳ, ham muốn chân lý, ham muốn đức hạnh, bất cứ hình thức ham muốn nào cũng trở thành một tiến trình tâm lý giúp cho tâm trí dễ tập trung ý tưởng về cái “tôi” và dễ tự tăng trưởng trung tâm điểm vị ngã.
Khi các ngài thấy được tiến trình này, khi các ngài thực sự ý thức về nó mà không chống chế, không có cảm giác bị sức cám dỗ lôi cuốn, không cầm cự lại, không tìm cách biện minh hoặc tìm cách phê phán xét nét nào, chính lúc ấy các ngài sẽ khám phá rằng tâm trí dễ đón nhận điều mới lạ và điều mới lạ không bao giờ là một cảm giác ; do đó, mình không thể nào tri nhận thể nghiệm lại điều mới lạ như có thể thể nghiệm nhiều lần bất cứ kinh nghiệm tầm thường nào trên đời. Điều mới lạ là một trạng thái hiện thể mà sự sáng tạo hiện đến, không cần gọi mời, không cần trí nhớ ; đó mới chính là thực tại.
CHƯƠNG XIV
TƯƠNG GIAO VÀ CÔ LẬP

Đời sống là kinh nghiệm, kinh nghiệm trong tương giao – mình không thể sống trong cô lập ; vì thế, đời sống là tương giao và tương giao là hành động. Làm thế nào mình có thể có được khả năng hiểu được tương giao, tức là đời sống ? Phải chăng tương giao chẳng những nghĩa là giao cảm với người đời mà còn có nghĩa thân thiết thâm trầm với những sự vật, và những ý tưởng? Đời sống là tương giao được diễn tả qua cách tiếp xúc với những sự vật, với người đời và với những ý tưởng. Khi hiểu được niềm tương giao, chúng ta sẽ có khả năng đón gặp đời sống một cách trọn vẹn, một cách thích đáng. Vì thế vấn đề chúng ta không phải khả năng – vì khả năng không độc lập, không đứng bên ngoài tương giao – mà tinh thần giao cảm lý hội ý nghĩa của sự tương giao, sự giao cảm lý hội ấy hiển nhiên sẽ tạo ra khả năng uyển chuyển nhanh nhẹn, điều chỉnh nhanh chóng, đáp ứng mau lẹ.
Cố nhiên tương giao là mặt kính mà các ngài tự soi để thấy bản thể các ngài. Không tương giao, các ngài không thể hiện hữu được ; hiện hữu có nghĩa là liên hệ ; liên hệ có nghĩa là hiện sinh. Các ngài chỉ hiện sinh trong tương giao ; nếu không thế, các ngài không hiện sinh được, cuộc hiện sinh mất hết ý nghĩa. Không phải vì các ngài nghĩ rằng các ngài hiện hữu là các ngài hiện sinh được. Các ngài hiện sinh bởi vì các ngài sống trong tương giao liên hệ ; vì mất sự lý hội về ý nghĩa của tương giao cho nên mới phát sinh sự xung đột tương tranh.
Thực trạng hiện nay là chúng ta không hiểu được tương giao, vì chúng ta chỉ dùng tương giao như một phương tiện để tiến thân thành đạt, biến đổi, trở thành một cái gì đó. Nhưng tương giao là một phương tiện để tự khám phá, vì tương giao là hiện thể ; tương giao là hiện sinh. Không có tương giao tôi không hiện hữu được. Muốn tự hiểu mình tôi phải hiểu tương giao. Tương giao là một lăng kính có thể bị méo mó sai lạc, hoặc cũng có thể soi đúng sự thực, phản chiếu đúng hiện thể . Nhưng phần đông chúng ta , trong khi soi kính, chỉ thấy trong tương quan những điều gì mình thích muốn thấy, chứ không chịu thấy sự thực đang , đang hiện thể. Chúng ta thích muốn lý tưởng hóa thoát ly, ham sống trong tương lai hơn là hiểu tương giao ấy trong hiện tại trực tiếp.
Vậy, nếu chúng ta khảo sát đời sống chúng ta , tương giao chúng ta với người khác, chúng ta sẽ thấy rằng đó là một biến trình cô lập hóa. Chúng ta thực sự không chú tâm tới người khác ; mặc dù chúng ta nói nhiều về sự bận tâm ấy. Chúng ta chỉ giữ tương giao với một người nào đó khi nào tương giao ấy thỏa mãn chúng ta , làm hài lòng chúng ta . Nhưng đến lúc xảy ra sự phiền rầy trong tương giao, sự bực bội bất ổn trong tâm thức chúng ta thì chúng ta loại bỏ ngay tương giao ấy. Nói khác đi, chỉ khi nào chúng ta còn thỏa mãn thỏa dạ thì lúc ấy còn tương giao. Điều này có vẻ khó nghe, nhưng nếu các ngài thực sự khảo sát đời sống các ngài một cách gần gũi hơn, các ngài sẽ thấy rằng đó là một sự kiện ; muốn tránh một sự kiện có nghĩa là sống trong ngu muội dốt nát và sự ngu dốt nhất định không bao giờ có thể tạo ra tương giao chân chính. Nếu các ngài nhìn sâu vào đời sống chúng ta quan sát tương giao , chúng ta thấy rằng đó là một tiến trình xây dựng sự chống đối, phản kháng lại người khác, một bức tường kiên cố mà mình dựng lên để nhìn xét người khác ; nhưng chúng ta vẫn luôn luôn giữ lại bức tường và núp đàng sau nó, đó có thể là bức tường tâm lý, bức tường vật chất, bức tường kinh tế hay bức tường quốc gia. Khi mà chúng ta còn sống trong cô lập, ẩn núp đàng sau bức tường thì không thể nào có được tương giao với kẻ khác ; chúng ta sống bưng bít bởi vì điệu sống ấy dễ mang đến thỏa mãn cho chúng ta hơn, chúng ta nghĩ rằng sống như vậy an ổn, an toàn hơn. Thế gian này quá phân tán, quá nhiều thống khổ, quá nhiều đau đớn , chiến tranh, tàn phá, khốn cùng, đến nỗi chúng ta muốn trốn thoát và sống ẩn núp trong những bức tường an toàn của bản thể tâm lý. Vì thế, đối với hầu hết chúng ta , tương giao thực ra chỉ là một tiến trình cô lập hóa, cố nhiên tương giao đại loại như thế chỉ xây dựng nên một xã hội cũng mang tính cách cô lập hóa như vậy. Đó là đúng như những gì đang xảy ra hiện nay ở khắp thế giới : các ngài ở lì trong sự cô lập hóa của các ngài và chìa tay với qua bức tường rồi gọi đó là chủ nghĩa quốc gia, tình huynh đệ hay bất cứ danh hiệu nào khác, nhưng trong thực tế thì chính thể tập quyền, những quân đội vẫn tiếp tục hiện hữu. Khi hãy còn đeo níu vào những giới hạn riêng tư, các ngài nghĩ rằng các ngài có thể tạo ra sự thống nhất thế giới, hòa bình thế giới – việc ấy không thể nào thực hiện được nếu mình còn bị vướng trong những giới hạn riêng lẻ. Khi mà các ngài còn có một biên giới, dù là biên giới quốc gia, kinh tế, tôn giáo hay xã hội thì sự kiện vẫn hiển nhiên là không thể nào có được hòa bình ở thế giới.
Tiến trình cô lập hóa là một tiến trình tìm kiếm quyền thế, không cần phân biệt tìm kiếm quyền hành cá thể hay quyền thế cho chủng loại hoặc tập đoàn quốc gia, tiến trình này vẫn luôn luôn là chủ trương phân ly. Đại để, đó là điều mỗi người đều muốn như vậy, phải thế không ? Hắn muốn một địa vị đầy quyền thế để hắn có thể cai trị điều động, không phân biệt là ở trong gia đình, trong văn phòng, hoặc trong một chế độ quan lại. Mỗi người đều tìm kiếm quyền hành ; và khi tìm kiếm quyền hành, hắn sẽ thiết lập một xã hội xây dựng trên quyền hành, thuộc phạm vi quân sự, kỹ nghệ, kinh tế, vân vân – điều này thực quá hiển nhiên. Phải chăng lòng khát khao quyền thế trong tự bản chất, đã mang tính cách cô lập ? Tôi nghĩ rằng hiểu được như vậy là một điều vô cùng quan trọng, bởi vì kẻ muốn có được một thế giới hòa bình, một thế giới tuyệt dứt mọi chiến tranh, mọi sự phá hủy khủng khiếp, dứt hết nỗi khốn cùng tàn khốc lan rộng đến mức vô lượng, thì kẻ ấy phải hiểu được vấn đề căn bản này, phải thế ? Một người nào giữ được tình người, có lòng ưu ái cao đẹp, không bao giờ có cảm thức gì về quyền hành ; người ấy không thể nào bị ràng buộc với bất cứ quốc gia nào, với bất cứ lá cờ nào . Kẻ ấy không bao giờ có một lá cờ nào cả.
Không thể nào có chuyện sống cô lập được – không có quốc gia nào, không có dân tộc nào, không có cá thể nào có thể sống trong cô lập ; tuy nhiên, vì các ngài đang tìm kiếm quyền hành thế lực trong quá nhiều đường lối khác nhau, cho nên các ngài đã gây ra sự cô lập. Người theo chủ nghĩa quốc gia là một tai ương, tai họa, vì hắn tạo ra một bức tường cô lập qua tinh thần ái quốc, tinh thần quốc gia cực đoan của hắn. Hắn đồng hóa với quốc gia hắn đến nỗi tạo ra một bức tường ngăn cách chống đối lại một quốc gia khác. Khi các ngài xây dựng một bức tường để ngăn chận cái gì đó thì những gì sẽ xảy ra ? Điều các ngài ngăn chận sẽ luôn luôn là điều tấn công, đập phá thường xuyên vào bức tường các ngài. Khi các ngài chống đối một cái gì đó, chính sự chống đối ấy chứng tỏ rằng các ngài đang xung đột với một người khác. Do đó, chủ nghĩa quốc gia, tức là một tiến trình cô lập, tức là hậu quả của việc tìm kiếm quyền hành, không thể nào đem đến hòa bình cho thế giới được. Kẻ nào là một người theo chủ nghĩa quốc gia mà vẫn nói về tình huynh đệ thì vẫn là một kẻ nói dối ; kẻ ấy đang sống trong trạng thái mâu thuẫn.
Mình có thể nào sống trên cuộc đời này mà không còn khát vọng quyền hành, thế lực, địa vị, thị uy ? Cố nhiên là mình có thể sống được như vậy . Mình chỉ có thể sống trên đời mà không còn khát khao những thứ đó, chỉ khi nào mình không còn tự đồng hóa với một cái gì to lớn hơn mình – như đảng phái, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, Thượng đế - chỉ là sự tìm kiếm quyền hành thế lực . Bởi vì trong tâm tư, các ngài cảm thấy trống rỗng, chán chường, yếu đuối ; các ngài liền muốn tự đồng hóa với một cái gì cao siêu, cao cả hơn mình. Lòng khát khao đồng hóa này chỉ là lòng khát khao quyền lực.
Tương giao là một tiến trình tự khai phát ; khi mình không tự hiểu mình, không hiểu được những đường lối tế nhị của tâm trí, mà lại chỉ lo thiết lập một trật tự bên ngoài, một hệ thống, một phương trình xảo quyệt, thì sự thiết lập ấy chẳng có ý nghĩa gì đáng kể. Điều quan trọng nhất vẫn là tự hiểu mình trong tương giao với một người khác. Lúc ấy, tương giao chẳng phải trở thành một tiến trình cô lập, mà lại là sự vận hành luân chuyển ; trong đó, mình khám phá ra những động lực riêng lẻ, những tư tưởng kín đáo riêng tư, những đeo đuổi riêng biệt của chính mình ; chính sự khám phá này là bước đầu của giải phóng, khởi đầu sự biến chuyển toàn triệt.

CHƯƠNG XV
NGƯỜI TƯ TƯỞNG VÀ TƯ TƯỞNG

Trong tất cả mọi kinh nghiệm chúng ta luôn luôn hiện hữu, người thể nghiệm, người quan sát, người thu góp cho mình thực nhiều kinh nghiệm hoặc là tự phủ nhận chối bỏ mình. Phải chăng đó chỉ là một biến trình sai lầm và chỉ là một sự đeo đuổi phù phiếm không thể nào đem đến trạng thái sáng tạo được ? Nếu đó là một tiến trình sai lầm, chúng ta có thể nào bôi xóa tiến trình ấy một cách toàn triệt và xua hẳn nó qua một bên, không màng biết tới ? Điều ấy chỉ có thể thực hiện khi nào tôi thể nghiệm, không phải như một tư tưởng gia thể nghiệm, mà phải thể nghiệm như chính lúc tôi ý thức được tiến trình sai lầm ấy và thấy rằng chỉ có một trạng thái duy nhất, trạng thái đồng nhất giữa người tư tưởng và điều tư tưởng.
Khi nào tôi còn thể nghiệm một sự việc nào đó, khi nào tôi còn trở nên một cái gì đó, tất nhiên phải có hành động chia hai đối nghịch ; tất nhiên phải có sự đối lập giữa người tư tưởng và điều tư tưởng , hai tiến trình ly cách vận hành tác động ; không thể nào có sự nhất trí đồng thể được, mà chỉ luôn luôn có sự tác động của một trọng điểm xuyên qua ý chí của hành động, muốn hiện thể hay không hiện thể trên bình diện tập thể, cá thể quốc gia, vân vân. Đại thể tiến trình xảy ra như vậy. Khi nào nỗ lực còn chia xẻ ra làm thành người thể nghiệm và điều thể nghiệm thì tất nhiên phải có sự thoái hóa suy sụp. Sự thuần nhất toàn bộ chỉ có thể thực hiện khi người tư tưởng không còn là người quan sát . Nói rõ hơn, hiện giờ chúng ta biết rằng có hai thực thể đối nghịch : người tư tưởng và điều tư tưởng , người quan sát và điều quan sát, người thể nghiệm và điều thể nghiệm ; đó là hai trạng thái cách biệt tương khắc. Nỗ lực chúng ta là nối kết lại hai thực thể gián cách này.
Ý chí hành động luôn luôn gây ra tinh thần nhị nguyên. Chúng ta có thể nào vượt qua ý chí phân ly này để khám phá ra một trạng thái mà hành động nhị nguyên không còn tác động nữa ? Điều này chỉ có thể tìm thấy được khi chúng ta trực tiếp thể nghiệm trạng thái nhất thể mà người tư tưởng và điều tư tưởng chỉ là một, không khác nhau nữa. Chúng ta thường quan niệm rằng người tư tưởng khác biệt với tư tưởng ; nhưng thực sự có phải thế không ? Chúng ta muốn quan niệm rằng sự thực là thế, bởi vì nếu quan niệm như vậy thì người tư tưởng mới có thể cắt nghĩa giải thích những vấn đề bằng tư tưởng của mình. Nỗ lực của người tư tưởng là trở thành một cái gì lớn hơn hoặc một cái gì nhỏ hơn ; do đó, trong sự tranh đấu như vậy trong hành động của ý chí như thế, trong sự “trở thành”, luôn luôn phát xuất thành tố suy đồi phân tán ; chúng ta đeo đuổi một biến trình sai lầm, chứ không phải một biến trình chính xác.
Có sự phân biệt chia đôi nào đó giữa người tư tưởng và tư tưởng không ? Khi mà người tư tưởng và tư tưởng còn bị phân đôi ly cách thì nỗ lực chúng ta chỉ là phù phiếm, không có ích lợi gì cả, chúng ta đã đeo đuổi một biến trình sai lầm phá hoại, một yếu tố đồi trụy. Chúng ta nghĩ rằng người tư tưởng khác biệt với tư tưởng của hắn. Khi tôi thấy rằng tôi gian tham, chiếm hữu, phũ phàng, tàn bạo, tôi liền nghĩ rằng tôi không nên thế. Rồi người tư tưởng cố gắng thay đổi tư tưởng mình, và thế là xuất phát nỗ lực muốn thành đạt, trở nên, “trở thành” ; trong tiến trình nỗ lực như vậy, người tư tưởng ôm ấp ảo tưởng sai lầm rằng có hai tiến trình sai biệt, nhưng trái lại thực ra chỉ có một tiến trình duy nhất thôi. Tôi nghĩ rằng ảo tưởng sai lầm ấy là mầm móng yếu tố căn bản của sự thối hóa đồi trụy.
Mình có thể nào thể nghiệm trạng thái đồng nhất thể, một thực thể duy nhất, chứ không phải hai tiến trình ly cách, kẻ thể nghiệm và điều sở nghiệm ? Chỉ có thế có lẽ chúng ta mới tìm thấy thế nào là sáng tạo, thế nào là trạng thái không thối hóa đồi trụy trong bất cứ thời gian nào, trong bất cứ tương quan nào mà con người còn có thể liên hệ.
Tôi gian tham. Tôi và tính gian tham không phải là hai trạng thái khác nhau ; chỉ có một trạng thái duy nhất, đó là sự gian tham. Nếu tôi ý thức được rằng tôi gian tham thì những gì sẽ xảy ra ? Tôi cố gắng không gian tham, vì những lý do xã hội hoặc vì những lý do tôn giáo ; chính nỗ lực ấy sẽ luôn luôn lệ thuộc trong một phạm vi nhỏ bé giới hạn ; tôi có thể khai triển phạm vi ấy, nhưng nó vẫn luôn luôn là một phạm vi giới hạn. Thế là yếu tố sa đọa đồi trụy vẫn còn đó. Nhưng khi tôi nhìn sâu hơn, nhìn gần hơn, tôi sẽ thấy rằng người nỗ lực, người cố gắng chính là nguyên nhân của sự gian tham và chính hắn là hiện thân của sự gian tham rồi ; tôi cũng thấy rằng không có cái “tôi” và sự gian tham, hai thực thể hiện hữu cách biệt nhau, mà chỉ có một thực thể duy nhất, đó là sự gian tham. Nếu tôi ý thức rằng tôi gian tham, rằng không có một người quan sát có tính gian tham, nhưng chính tôi là tính gian tham, nếu ý thức được như vậy thì toàn thể vấn đề chúng ta sẽ hoàn toàn khác hẳn, sự đáp ứng của chúng ta đối với vấn đề sẽ hoàn toàn khác hẳn ; lúc ấy, nỗ lực chúng ta sẽ không còn mang tính cách phá hoại nguy hiểm nữa.
Các ngài sẽ làm gì khi toàn thể hiện thể các ngài là sự gian tham, khi bất cứ hành động nào của các ngài chỉ là sự gian tham ? Thực là bất hạnh ; chúng ta không hề suy tư theo đường lối này. Cái “tôi” vẫn hiện hữu thực thể tối cao, người lính canh gác, kiểm soát , cai trị. Đối với tôi, tiến trình này rất khốc hại. Nó là một ảo ảnh và chúng ta đều hiểu tại sao chúng ta vẫn làm thế. Tôi tự chia cắt mình ra hai phần, phần cao và phần thấp để có thể tiếp diễn liên tục. Nếu chỉ có gian tham thôi, hoàn toàn chỉ có thế thôi, chứ không phải “tôi” tác động trên sự gian tham ấy, mà chính tôi hoàn toàn là sự gian tham, vậy thì cái gì sẽ xảy ra ? Hiển nhiên lúc ấy một tiến trình hoàn toàn khác hẳn sẽ vận hành, một vấn đề khác hẳn sẽ thành hình. Chính vấn đề này mới có tính cách sáng tạo, không còn cảm thức về “tôi” ngự trị, trở nên, thành đạt, một cách tích cực hay tiêu cực. Chúng ta phải đạt đến trạng thái này nếu chúng ta muốn có được tinh thần sáng tạo. Trong trạng thái này, không còn kẻ nỗ lực, không còn người cố gắng. Đây không phải là vấn đề chuyển đạt suông bằng lời lẽ ngôn từ hay cố gắng tìm hiểu trạng thái ấy là gì, nếu các ngài khởi sự tìm hiểu trạng thái ấy bằng đường lối ấy thì các ngài sẽ đánh mất nó ngay và các ngài sẽ không bao giờ tìm thấy được. Điều quan trọng là thấy rằng người nỗ lực và đối tượng mà nỗ lực ấy hướng tới chỉ là một, không khác nhau. Muốn thấy được như vậy mình phải có ý thức giao cảm phi thường, tinh tường tỉnh thức, nhìn ngắm sự vận hành của tâm trí trong việc phân chia ra làm hai thực thể tương phản, thực thể ở trên và thực thể ở dưới ; thực thể thường còn, nhưng đó vẫn là một tiến trình tư tưởng và lệ thuộc vào thời gian. Nếu chúng ta có thể hiểu được điều này, hiểu bằng kinh nghiệm, trực tiếp, thì lúc ấy ngài sẽ thấy rằng một yếu tố khác biệt hẳn được thành hình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét